Viễn cảnh buồn-và vui
Nửa đêm khó ngủ quá, có 2 bài trên The Economist viết về Viễn cảnh buồn cho các nền kinh tế mới nổi rất chi là buồn. Bài đầu tiên nói về việc Covid-19 sau 1 năm càn quét những nền kinh tế phát triển thì chuyển sang càn quét những nền kinh tế đang phát triển, những nơi mà tỷ lệ tiêm Vaccine mới đạt chưa đủ 10% dân số và tiếp tục theo sau đó sẽ là hàng loạt các vấn đề chính trị nghiêm trọng. Có một bài điểm dự báo chán nản về các nền kinh tế mới nổi như sau:
--Dự báo GDP trung hạn cho tất cả các nền kinh tế đang phát triển tổng thể thấp hơn 5% so với trước khi virus tấn công

--Tỷ lệ các nước có mức sản lượng kinh tế trên đầu người tăng nhanh hơn ở Mỹ đã tăng từ 34% trong những năm 1980 lên 82% vào những năm 2000. Thời kỳ hoàng kim này giờ có vẻ như đã kết thúc sớm. Trong những năm 2010, tỷ lệ các quốc gia bắt kịp đã giảm xuống còn 59%. Và tiếp tục giảm trong các năm tiếp theo.

--Chuyện gì xảy ra tiếp theo? Một rủi ro là khủng hoảng kinh tế thị trường đang phát triển khi lãi suất ở Mỹ tăng. Mặc dù, hầu hết các nền kinh tế đang phát triển đều ít dễ suy sụp hơn so với trước đây, bởi ít dựa vào nợ nước ngoài và chế độ tỷ giá linh hoạt hơn.
--Năng suất lao động lâu dài có thể bị giảm do có quá nhiều trẻ em phải nghỉ học.
--Thương mại cũng có thể trở nên khó khăn hơn. Trung Quốc đang tập trung phát triển hướng nội, tránh xa các chính sách đối ngoại đã làm cho nước này trở nên giàu có hơn. Nếu điều đó tiếp tục, Trung Quốc sẽ không bao giờ là nguồn nhu cầu của người tiêu dùng cho các nước nghèo mà Mỹ đã dành với Trung Quốc trong những thập kỷ gần đây. Trong khi đó:
--Chế độ bảo hộ ngày càng tăng ở phương Tây cũng sẽ hạn chế cơ hội xuất khẩu cho các nhà sản xuất nước ngoài, trong mọi trường hợp, sẽ kém lợi thế hơn khi sản xuất trở nên ít thâm dụng lao động hơn.
--Đối mặt với bối cảnh khắc nghiệt này, các thị trường mới phát triển có thể bị cám dỗ từ bỏ thương mại tự do. Đó sẽ là một sai lầm nghiêm trọng. Môi trường toàn cầu không khoan nhượng khiến họ càng phải tuân thủ các chính sách phù hợp. Quan niệm của Thổ Nhĩ Kỳ cho rằng việc tăng lãi suất gây ra lạm phát là một thảm họa; Việc theo đuổi chủ nghĩa xã hội của Venezuela đã bị hủy hoại; và cấm các công ty nước ngoài thêm khách hàng, như Ấn Độ vừa làm với Mastercard, là tự đánh bại chính mình.

Chà bài viết khá bi quan với viễn cảnh dài hạn. Điều này hoàn toàn đúng, Trung Quốc không thể tạo ra lượng cầu hàng hóa như Phương Tây nên chính sách của Việt Nam đang đi đúng hướng. Hiện tại cái chính trong dài hạn là tránh phát triển những ngành thâm dụng lao động (cái này rất khó) vì những ngành thâm dụng lao động như dệt may hay sản xuất hàng tiêu dùng khác lại là một cửa thu hút FDI quan trọng, nguồn hiện tại vẫn đang nuôi sống VN kể cả trong đại dịch. Nhưng về việc từ bỏ tự do thương mại thì không, Việt Nam lúc nào cũng có chính sách thương mại khôn ngoan, mình không phải chuyên gia trong lĩnh vực này nhưng sau khi xem xét các biểu thuế mình thấy hầu hết là chúng ta rất khôn ngoan trong các FTA khi môi trường kinh doanh gặp bất lợi thật sự.
--------------------------------------------------------------------------
Sang tới bài 2. Có một vài biểu đồ cho thấy các quốc gia đang phát triển đang dần chậm phát triền hơn nhất là nhóm BRICS (Brazil, Russia, India, China, South Africa). Nhưng tập trung vào việc các quốc gia mới nổi như China đang chậm dần, các hoạt động gần đây cho thấy họ đang chuyển sang hình thức tụ cung tự cấp nhiều hơn để khắc phục nhược điểm về thương mại nhưng vô tình lại có tín hiệu đáng mừng cho Việt Nam.
"China’s share of global footwear exports declined from 40% to 32.5% between 2008 and 2018, for example; Vietnam—the biggest beneficiary of changes in China’s export profile—captured 5.9 of the 7.5 percentage points in export space vacated by China."
Trong bài này có một đoạn thú vị: thập kỷ trước việc phát triển của các quốc gia đang phát triển làm giảm chênh lệch giữa các quốc gia nhưng lại làm gia tăng chênh lệch giàu nghèo của các quốc gia đang phát triển. Và khoảng thời gian khủng hoảng trở thành một thước đo cho việc chất lượng sống thực sự là như thế nào. Đọc tới đây cũng hơi buồn vì đúng là chênh lệch giàu ngheo ở VN rất lớn nhất là SG.
——————————————————————————
Tóm lại Thương mại ở cả 2 bài này: Thương mại toàn cầu đang sụt giảm nói chung do Covid-19, các yếu tố chính trị vân vân. Việc thương mại toàn cầu sụt giảm không chỉ là thách thức mà là cơ hội cho một vài nền kinh tế nhỏ hơn những nền kinh tế BRICS. Ví dụ như Việt Nam. Và thực tế Việt Nam hưởng lợi lớn từ Trade War, xung đột này nọ rồi từ việc China xoay hướng kinh tế. Nhưng vấn đề cấp thiết nhất hiện tại phải nói là duy trì sản xuất cho các ngành có cầu nội địa thấp để có một cơ may bám đuổi trong thời điểm hiện tại. Nhìn chung là dù trong dịch thì cũng có tiềm năng mà bình tĩnh nha
Bài viết khác
Rồi đầu tiên chúng ta phải mô tả tại sao 2 cái này có sự khác biệt và cái convention (quy ước – convention) nào đã tạo ra cái khác biệt này trong hệ thống. Đầu tiên là USD Bank, muốn mua USD hay nói chung là chứng từ điNội dung này chỉ dành cho … Đọc tiếp "USD chợ đen vs USD Bank"
Chuyện là trong cuốn CSTT TK 21 (Chính sách tiền tệ thế kỷ 21 – Monetary Policy in the 21st Century) thì Ben Bernanke nói QE (Quantitative Easing – Nới lỏng định lượng) không phải in tiền. Về mặt kỹ thuật thì đúng là QE trong khuôn khổ chính sáchNội dung này chỉ dành cho … Đọc tiếp "Bản chất của QE- Bơm tiền- chưa phải ” in tiền “"
Hôm trước chúng ta đang nói tới một vấn đề nghe rất khó hiểu và chấp nhận là “thừa tiền” nhưng lại “thiếu cash” (tiền mặt – cash, thanh khoản ngay lập tức) để hình dung thì chúng ta thừa thanh khoản nhưng lại thiếu “tiền mặt”, điều này làNội dung này chỉ dành cho … Đọc tiếp "Nghịch lý trong cung tiền- lãi suất : Lãi suất bắt buộc phải tăng"
